Dưới đây chúng tôi đưa ra 8 tạo tác nổi bật lên nhờ sự độc đáo, khả năng gợi sự tò mò hoặc tăng kiến thức của chúng ta về những khía cạnh chưa từng được biết trong lịch sử nhân loại.
Chúng tôi đã cố ý không lựa chọn các tạo tác nổi tiếng như cỗ máy Antikythera, pin Baghdad, hay đá thạch anh Viking và rất nhiều di vật nổi tiếng khác. Thay vào đó, chúng tôi muốn nêu bật một số tạo tác từ thế giới cổ đại, ít được biết đến hơn nhưng cũng không kém phần nổi bật.
Chiếc búa của thần Thor (khoảng năm 900 SCN, Đan Mạch)
(Ảnh: Discovery.com)
Việc phát hiện một tạo tác vùng Viking từ thế kỷ 10 trông giống chiếc búa của Thor đã giải đáp cho một bí ẩn lâu dài xoay quanh hơn 1.000 miếng bùa hộ mạng cổ đại được tìm thấy trên khắp khu vực Bắc Âu. Những di vật này, được gọi là bùa hộ mệnh Mjolnir, dường như khắc họa những chiếc búa, mà đã được các nhà sử gia liên hệ với Thor – một vị thần Bắc Âu. Tuy nhiên, chúng ta không thể đưa ra kết luận chắc chắn vì hình dạng của chúng không xác định, và không chiếc nào trong số chúng có khắc những dòng tiết lộ danh tính.
Nhưng vào đầu năm nay, một chiếc mặt dây chuyền tương tự đã được phát hiện tại khu giáo xứ Købelev trên đảo Lolland, Đan Mạch, trên đó có khắc dòng chữ Rune “đây là một cái búa”. Được đúc bằng đồng, và có lẽ được mạ bạc, thiếc và vàng, chiếc mặt dây chuyền 1.100 năm tuổi này cho thấy huyền thoại về vị thần Thor đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đồ trang sức của người Viking.
Tranh ‘Cuộc chiến giữa Thor và những tên khổng lồ của Mårten Eskil Winge. (Ảnh: Wikipedia)
Hai bên mặt miếng bùa hộ mệnh hình búa (chữ rune bên tay trái). (Ảnh: Bảo tàng Quốc gia Đan Mạch)
Theo thần thoại Bắc Âu, Thor là vị thần cầm búa có liên hệ với sấm sét, bão, cây sồi, sức mạnh, sứ mệnh bảo vệ nhân loại, sự thiêng liêng, sự hồi phục và sinh sôi. Thor là một vị thần nổi tiếng được nhắc đến trong lịch sử các tộc người German (Giéc-manh), từ sự chiếm đóng các khu vực Germania của quân La Mã, cho đến sự bành trướng bộ lạc trong Giai đoạn di cư (21–700 năm SCN), và cho đến sự nổi tiếng của ông trong Thời đại Viking. Khi đó, trong quá trình Kitô giáo được truyền sang vùng Scandinavia, người ta đeo bùa hộ mệnh Mjolnir như một cách phản kháng, và tên riêng của những người Bắc Âu ngoại đạo (không theo Ki-tô giáo) có chứa tên của vị thần này, qua đó minh chứng cho sự nổi tiếng của ông.
Nhánh Quipu ở thành phố Caral (năm 3.000 TCN, Peru)
(Ảnh: Ancient Origins)

Thành phố thần thánh Caral là thủ phủ 5.000 năm tuổi đại diện cho nền văn minh lâu đời nhất được biết đến ở châu Mỹ, được gọi là Norte Chico. Trong số những tạo tác đáng kinh ngạc được khai quật tại di chỉ, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một đoạn dây thắt nút gọi là nhánh quipu.
Những nhánh quipu, đôi khi được gọi là ‘những đốt biết nói’, là các thiết bị ghi âm bao gồm các đường ren có màu sắc, được bện thành sợi và đan tay, hay những chuỗi từ lông lạc đà không bướu hay lạc đà nhà Nam Mỹ Anpaca, hay làm bằng sợi cotton.
Cho đến thời Inca, hệ thống này đã hỗ trợ việc thu thập dữ liệu và lưu trữ hồ sơ, từ việc giám sát việc thu thuế, thu thập hồ sơ điều tra dân số một cách chính xác, thông tin ngày tháng cho đến tổ chức trong quân đội. Những sợi dây chứa các giá trị số và các giá trị khác được mã hóa bằng những nút thắt trong hệ thống định vị thập phân. Kết hợp với nhau, các loại sợi len, các màu sắc, các nút thắt và các mấu nối chứa đựng các thông tin mang tính chất thống kê và tường thuật mà một vài xã hội Nam Mỹ trước đây có thể hiểu được.
Ở một số ngôi làng, quipu là những vật dụng quan trọng đối với cộng đồng địa phương, và thường mang tính nghi lễ hơn là để ghi nhớ thông tin. Cho đến khi nhánh quipu được phát hiện ở Caral, chưa có một ví dụ nào khác có niên đại từ trước năm 650 SCN. Vì vậy, phát hiện này là minh chứng rõ ràng cho thấy cư dân vùng núi Andes ở Nam Mỹ đã sử dụng hệ thống lưu trữ phức tạp như vậy từ nhiều ngàn năm sớm hơn tưởng tượng lúc ban đầu.
Bình sữa, đồ chơi và trống lắc: chiếc lọ đất nung 3 trong 1 (năm 400 TCN, Ý)
(Ảnh: Cục Quản lý Khảo cổ Puglia)
Năm 2013, các nhà khảo cổ người Ý tìm thấy một cái lọ đất nung 2.400 năm tuổi dành cho trẻ sơ sinh to gấp đôi bình thường, trông giống một món đồ chơi hình con lợn. Tạo tác độc đáo này là một trong nhiều văn vật hiếm có được phát hiện cuối cùng ở thành phố Manduria, khi quá trình thi công xây dựng làm lộ ra lăng mộ của người Messapian.
Di vật này được gọi là guttus, tức là một cái bình có cái miệng hay cái cổ nhỏ hẹp để rót chất lỏng. Chúng được dùng để đựng rượu vang và các loại đồ uống khác, nhưng trong trường hợp này, chiếc bình guttus được dùng để cho đứa bé hoặc trẻ nhỏ ăn. Điểm đáng chú ý là chiếc bình guttus này còn được tạo hình một con lợn với đôi tai nhọn và cặp mắt giống người. Nó cũng có những cái trống lắc bằng đất nung ở phần bụng.
Chiếc bình có niên đại khoảng 2.400 năm, khi đó khu vực đông nam nước Ý được người Messapian sinh sống định cư. Đây là một nhóm bộ tộc di cư từ Illyria (một khu vực ở phía tây Bán đảo Balkan) vào khoảng 1000 năm TCN. Người Messapian đã dần biến mất sau khi Cộng hòa La Mã xâm chiếm vùng đất và đồng hóa người dân ở đây.
Đĩa thiên văn Nebra (khoảng 1.600 năm TCN, Đức)
Đĩa thiên văn Nebra. (Ảnh: Wikipedia
Đĩa thiên văn Nebra là một chiếc đĩa bằng đồng có niên đại 3.600 năm tuổi. Đây là một văn vật đánh kinh ngạc đến nỗi nó từng được nhìn nhận là đồ khảo cổ giả mạo khi mới được khai quật. Tuy nhiên, các phân tích khoa học tỉ mỉ cho thấy đây xác thực là đồ thật và hiện tạo tác quý giá này đã có mặt trong danh sách ‘Di sản tư liệu thế giới’ của tổ chức UNESCO.
Đĩa thiên văn Nebra được phát hiện trong khu rừng Ziegelroda, Saxony-Anhalt, Đức. Tại một khu đất có rào vây quanh thời tiền sử trên đỉnh ngọn đồi Mittelberg, chiếc đĩa này đã được chôn cất theo nghi lễ, cùng với hai thanh kiếm báu, hai chiếc rìu, hai vòng tay xoắn ốc và một cái đục bằng đồng.
Trình tự chạm khắc các họa tiết trên mặt đĩa thiên văn Nebra.



 Chiếc đĩa có đường kính khoảng 30 cm, nặng 2,2 kg, được phủ một gỉ đồng màu xanh lam và xanh lá cây, và khảm các biểu tượng bằng vàng. Những biểu tượng này thường biểu thị cho một mặt trời hoặc một mặt trăng tròn, một mặt trăng lưỡi liềm, và các vì sao (bao gồm một cụm được nhìn nhận là cụm sao Tua Rua – Pleiades). Hai vòng cung vàng dọc theo hai bên được thêm vào sau đó. Hai vòng cung mở rộng một góc 82°, thể hiện chính xác số đo góc giữa các vị trí của mặt trời vào mùa hè và thời điểm đông chí tại vĩ tuyến Mittelberg (51° Bắc). Một điểm cuối cùng là một vòng cung khác ở phía dưới, bao xung quanh bởi nhiều đường nét không có ý nghĩa rõ ràng, được nhìn nhận là chiếc Xà lan Thái dương (“chiếc thuyền mặt trời”) với vô số mái chèo, hoặc dải Ngân Hà.
Tuy rằng nhiều công trình khảo cổ và tổ hợp thiên văn cự thạch có niên đại cổ hơn như vòng tròn Goseck hay công trình tượng đài cự thạch Stonehenge đã được sử dụng để đánh dấu các điểm chí (hạ chí, đông chí), nhưng chiếc đĩa này lại là “công cụ cầm tay” lâu đời nhất để thực hiện các phép đo đạc như vậy.
Công trình cự thạch Stonehenge ở Anh. (Ảnh: Britannica)

Hình dựng lại Vòng tròn Goseck ở Saxony-Anhalt, Đức. (Ảnh: Flickr)
Dao găm nạm vàng cực kì tinh xảo gần di chỉ cự thạch Stonehenge (2.000 năm TCN, Anh)
Cận cảnh thiết kế chuôi dao găm cho thấy mô thức zíc zắc từ các mảnh đinh tán nhỏ. (Ảnh: Đại học Birmingham và David Bukach)
Năm 1808, William Cunnington, một trong những các nhà khảo cổ chuyên nghiệp đầu tiên của Anh, đã phát hiện được những viên ngọc quý trên vương miện của ‘Vua Stonehenge’. Chúng được tìm thấy trong một gò mộ lớn từ thời đại đồ Đồng chỉ cách di chỉ cự thạch Stonehenge ½ dặm, hiện nay gọi là Bush Barrow. Trong khu vực gò mộ có niên đại 4.000 năm tuổi này, Cunnington đã phát hiện thấy những báu vật được chế tác công phu, một vật hình thoi bằng vàng để cài áo choàng, và một con dao găm được trang trí tinh xảo.
Con dao găm ban đầu được trang trí với 140.000 chiếc đinh tán nhỏ bằng vàng có chiều rộng chỉ khoảng 1/3 milimet. Để chế tạo ra những chiếc đinh tán này, đầu tiên các nghệ nhân phải tạo ra một sợi dây vàng gần như nguyên chất, chỉ dày hơn một chút so với sợi tóc người. Sau đó phần cuối sợi dây sẽ được dát mỏng để tạo ra một đầu đinh tán, và được cắt bằng đá lửa vô cùng sắc bén hay lưỡi dao làm từ đá vỏ chai, chỉ 1 millimet ngay bên dưới đầu đinh tán.
Công đoạn tinh xảo này sẽ được lặp lại hàng chục ngàn lần. Sau đó hàng ngàn lỗ nhỏ sẽ được tạo ra trên phần chuôi của con dao găm và một lớp nhựa cây mỏng sẽ được bôi lên bề mặt làm chất kết dính để giữ các đinh tán ở vị trí cố định. Tiếp đó mỗi chiếc đinh tán sẽ được cẩn thận đặt vào những cái lỗ nhỏ xíu. Người ta ước tính rằng toàn bộ quá trình, từ sản xuất sợi, chế tạo đinh tán, tạo lỗ, rải nhựa và cố định đinh tán, sẽ mất ít nhất 2500 giờ đồng hồ.
Cận cảnh chuôi dao găm, bên cạnh một chiếc kim khâu. Các đinh tán được đặt theo đường thẳng và các đầu đinh tán gối lên nhau như vảy cá. (Ảnh: Đại học Birmingham và David Bukach)


Tranh màu nước phác họa chuôi dao găm, làm từ hàng nghìn đinh tán nhỏ xíu bằng vàng, được William Cunnington khai quật vào năm 1808. (Ảnh: Bảo tàng Wiltshire, Devizes)

Cỗ xe ngựa mặt trời Trundholm (khoảng 1700-500 năm TCN, Đan Mạch)
Mặt mạ vàng của Cỗ xe ngựa Mặt trời Trundholm. (Ảnh: Wikimedia)
‘Cỗ xe ngựa’ mặt trời Trundholm là một tạo tác bằng đồng và vàng được kéo ra từ một đầm lầy trên đảo Sjælland, Đan Mạch vào năm 1902. Mặc dù người ta cho rằng tạo tác này thuộc về thời kỳ đồ Đồng Bắc Âu (khoảng 1700-500 năm TCN), niên đại chính xác của nó vẫn chưa rõ ràng. ‘Cỗ xe ngựa’ bao gồm một con ngựa bằng đồng, một chiếc đĩa bằng đồng với một phiến vàng mỏng được ép vào một bên mặt, và sáu bánh xe bốn chấu cũng được làm bằng đồng.
Đĩa trung tâm. (Ảnh: Kim Bach)
 Ngoài một vật phẩm mang tính nghi lễ, người ta cũng cho rằng ‘cỗ xe ngựa” Mặt trời Trundholm có thể đóng vai trò của một cuốn lịch. Giả thuyết này đã được đề xuất bởi Klaus Randsborg, một giáo sư ngành khảo cổ tại trường ĐH Copenhagen. Ông giải thích rằng mặt ngày (mặt bằng vàng) có các kích thước liên hệ với 1/3 một năm dương lịch, trong khi mặt đêm của vòng tròn đồng tâm lớn ở trung tâm có các kích thước liên hệ với 6 tháng âm lịch. Do đó ông kết luận rằng “mối liên hệ ở đây là: dương lịch rơi vào mặt ngày, và âm lịch rơi vào mặt đêm của cỗ xe ngựa, đây có vẻ là một sự tính toán hoàn hảo”.
Hộp đựng hài cốt của James (Thế kỷ 1 SCN, Israel)
(Ảnh: Discovery.com)
 Chiếc hộp đựng hài cốt của James là một trong những tạo tác được nhắc đến trong Kinh Thánh quý giá nhất mọi thời đại, vì chiếc hộp đá vôi được cho là chứa hài cốt người anh em của chúa Jesus. Nếu được xác thực là đúng, chiếc hộp này sẽ là hiện vật đầu tiên có liên hệ với Chúa Giê-su. Chiếc hộp hài cốt từ thế kỷ I SCN có khắc một dòng chữ bằng ngôn ngữ Aramaic: “James, con trai của Joseph, người anh em của Giê-su.” Chiếc hộp được khắc từ một mảnh đá vôi duy nhất, một loại hộp hài cốt phổ biến của người Do Thái Palestine vào thế kỷ thứ nhất.
Vào thời đó, thi thể sẽ được giữ trong hang động trong vòng một năm trước khi hài cốt được thu thập và đặt vào trong hộp. Chiếc hộp đá vôi này đã từng là tiêu điểm của các vụ đồ giả gây nhiều tranh cãi nhất trong hàng thập kỷ. Ban Đặc trách Cổ vật Israel (Israel Antiquities Authority) đã cố gắng chứng minh rằng hiện vật này đã được làm giả bởi nhà sưu tầm đồ cổ Oded Golan, nhưng đã thất bại khi có phán quyết của tòa. Sau đó họ đã cố gắng giành quyền sở hữu hiện vật này , nhưng không thành. Cũng có tuyên bố cho rằng, chiếc hộp đã bị chính quyền Israel làm hư hại trước khi trả lại cho chủ nhân.
 Ống sáo Divje Babe (58.000 – 43.000 năm TCN, Slovenia)
(Ảnh: skyscrapercity.com)
 Ống sáo Divje Babe được cho là nhạc cụ cổ xưa nhất từng phát hiện. Ống sao này được tìm thấy trong một hang động ở Slovenia vào năm 1995. Hiện vật này là một khúc xương đùi của một con gấu hang, có niên tại 43.000-60.000 năm tuổi, và đã được đục khoét thành nhiều lỗ cách đều.
Những nhà khoa học không dám chấp nhận giả thuyết người Neanderthal có thể chơi nhạc, đã bác bỏ lời tuyên bố và cho rằng các lỗ được khoét đục cách đều một cách hoàn hảo và gọn gàng thực chất là do khúc xương đã bị một loài động vật nào đó nhai gặm. Tuy nhiên, quan điểm thống nhất rằng chiếc ống sáo Divje Babe thực chất là một loại nhạc cụ đang dần được chấp nhận nhiều hơn khi ngày càng có nhiều bằng chứng về các nền văn minh cổ đại và tranh luận phản bác thuyết tiến hóa.
Tác giả: April Holloway, Ancient Origins.
Thanh Hải biên dịch

Đăng nhận xét

 
Top